Tham dự Hội thảo có các vị đại biểu của bộ, ban, ngành Trung ương; các đơn vị trực thuộc Bộ TN&MT; Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh, thành phố; các hiệp hội, doanh nghiệp khai thác, sử dụng tài nguyên nước; và các nhà khoa học, các chuyên gia trong lĩnh vực tài nguyên nước, khu vực phía Bắc.
Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Công Thành phát biểu khai mạc Hội thảo
Luật Tài nguyên nước 2012 đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực kể ngày 01/01/2013. Qua gần 10 năm thực hiện, Luật Tài nguyên nước năm 2012 đã góp phần tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động của toàn xã hội về bảo vệ, khai thác sử dụng tài nguyên nước; tài nguyên nước được quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững hơn, mang lại nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, trong điều kiện biến đổi khí hậu; 63% lượng nước được hình thành ở bên ngoài lãnh thổ; nhu cầu khai thác ngày càng tăng; nguồn nước suy giảm đã đặt ra nhiều thách thức lớn. Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương mới nhằm tăng cường công tác quản lý hiệu quả tài nguyên nước, bảo vệ tài nguyên nước, phục hồi các nguồn nước bị suy thoái cạn kiệt, ô nhiễm để bảo đảm an ninh nguồn nước đáp ứng các nhu cầu sử dụng nước cho sinh hoạt, sản xuất và môi trường. Thực tế đó đòi hỏi pháp luật về tài nguyên nước cần thiết phải sớm được cập nhật, sửa đổi, bổ sung, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ.
Thực hiện Nghị quyết số 50/2022/QH15 ngày 13/6/2022 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022, Chính phủ đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Trên cơ sở đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập tổ chức xây dựng Dự thảo Luật Tài nguyên nước sửa đổi. Dự thảo đã được đăng tải trên Cổng thông tin của Chính phủ, Bộ TN&MT để lấy ý kiến các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và nhân dân.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Thứ trưởng Lê Công Thành cho biết, sau 10 năm triển khai Luật Tài nguyên nước 2012, trên cả nước đã đạt được một số kết quả tích cực về công tác quản lý tài nguyên nước, tuy nhiên trong thực tiễn triển khai thực hiện Luật từ năm 2013 đến nay cũng đã phát sinh những vấn đề cần thiết phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật tài nguyên nước năm 2012 để đảm bảo tỉnh đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật cũng như phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ quản lý tài nguyên nước trong giai đoạn mới.
Thứ trưởng Lê Công Thành cũng cho biết, để tiếp tục thực hiện quy định của pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời để Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) sau khi được Quốc hội thông qua bảo đảm tính khả thi, hiệu quả, Bộ TN&MT đã tổ chức Hội thảo lấy ý kiến dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) của 19 tỉnh phía Nam và hôm nay Bộ tiếp tục tổ chức Hội thảo lấy ý kiến dự thảo Luật tại khu vực phía Bắc.
Tại Hội thảo, Thứ trưởng Lê Công Thành đề nghị các đại biểu chia sẻ quan điểm, kinh nghiệm, đóng góp ý kiến quý báu của mình cho dự thảo Luật, tập trung vào các điểm mới của dự thảo Luật nhằm xây dựng, hoàn thiện dự thảo Luật bảo đảm tính đồng bộ, tổng hợp, thống nhất quản lý về tài nguyên nước, đảm bảo an ninh nguồn nước, bảo đảm hiệu quả, tính khả thi cao và đi vào thực tiễn.
Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh phát biểu tại Hội thảo
Báo cáo tóm tắt tình hình xây dựng Dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh cho biết, Bộ TN&MT đã thực hiện rà soát, tổng kết Luật Tài nguyên nước năm 2012, cập nhật các chủ trương, quan điểm, định hướng của Đảng, Nhà nước trong các Nghị quyết để thực hiện như: Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 15/01/2019 của Bộ Chính trị về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế; Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045,... làm căn cứ chính trị và cơ sở lý luận cho việc xác định cụ thể hoá những quan điểm, chủ trương, chính sách cơ bản trong dự thảo Luật.
Trên cơ sở kết quả rà soát, Bộ TN&MT đã trình Chính phủ hồ sơ đề nghị xây dựng dự án Luật, Chính phủ đã trình Quốc hội và được Quốc hội đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023 tại Nghị quyết số 50/2022/QH15 ngày 13/6/2022 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022.
Thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tập trung xây dựng dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi); đã tổ chức họp Ban soạn thảo, Tổ biên tập, tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm, các buổi làm việc về dự thảo Luật với cơ quan, tổ chức có liên quan, chuyên gia, nhà khoa học trong nước và quốc tế; đã gửi lấy ý kiến góp ý của các Bộ, ngành, địa phương, các chuyên gia, các tổ chức, cá nhân và đăng tải dự thảo Luật trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ.
Quan điểm xây dựng Luật cơ quan soạn thảo tiếp cận theo ba quan điểm lớn: (1) Cụ thể hoá các Nghị quyết của Đảng, thể chế hoá quan điểm tài nguyên nước là tài nguyên quan trọng, thiết yếu, là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước thống nhất quản lý; (2) Tạo lập hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm minh bạch, đồng bộ để có khả năng vốn hoá nguồn lực tài nguyên, phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả hướng tới quản trị tài nguyên nước quốc gia trên nền tảng cộng nghệ số; tích hợp các quy định về quản lý nước trong Luật Tài nguyên nước để quản lý, kiểm soát, điều tiết toàn diện các vấn đề về nước, bảo đảm an ninh tài nguyên nước quốc gia nên cơ sở thống nhất quản lý về tài nguyên nước; bảo đảm tính tương thích với pháp luật, thông lệ quốc tế và tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật; (3) Tiếp tục kế thừa các quy định của Luật Tài nguyên nước năm 2012 đang phát huy hiệu quả nhưng phải đổi mới và phát triển. Bám sát, giải quyết vấn đề nguồn nước đang “quá thừa, quá thiếu, quá bẩn", coi tài nguyên nước là trọng tâm, nghiên cứu điều chỉnh các quy định trong các luật khác để bảo đảm thống nhất, nâng cao hiệu lực, hiệu quả. Đồng thời, quản lý hiệu quả đúng giá trị nguồn tài nguyên trên cơ sở phân cấp, phân quyền, bằng những công cụ tài chính tiên tiến để tài nguyên nước là nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội.
GS.TS Trần Thục Chủ tịch Hội Khí tượng Thủy văn Việt Nam phát biểu ý kiến tại Hội thảo
Một số điểm mới và định hướng xây dựng dự thảo Luật, bổ sung các quy định nhằm phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước cả Trung ương và địa phương. Hướng tới quản lý tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số, thống nhất về cơ sở dữ liệu, xây dựng bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực, giảm thiểu nhân lực quản lý, vận hành, chi phí đầu tư của nhà nước.
Dự thảo Luật xây dựng theo hướng tách bạch quản lý tổng hợp thống nhất về tài nguyên nước với quản lý, vận hành công trình khai thác, sử dụng nước (công trình thủy lợi, thủy điện, cấp nước đô thị, nông thôn, cấp nước công nghiệp dịch vụ, giao thông thủy...); đồng thời giải quyết những chồng chéo, đan xen, xung đột, có lỗ hổng trong các luật.
Bổ sung các quy định nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia, giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn nước từ nước ngoài và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu; chú trọng phòng ngừa, kiểm soát và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm; Quy định cụ thể về bảo vệ nguồn nước quan trọng cấp cho sinh hoạt; quy định về sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, tránh lãng phí, bảo vệ nguồn nước trong các hoạt động khai thác, sử dụng nước.
Bổ sung các quy định nhằm đẩy mạnh xã hội hoá theo hướng những việc gì doanh nghiệp có thể làm được thì giao cho doanh nghiệp thực hiện, giảm nguồn lực đầu tư của nhà nước hướng tới nhà nước quản lý, doanh nghiệp thực hiện và dần dịch chuyển theo hướng nhà nước chỉ ban hành chính sách và hậu kiểm.
Bổ sung quy định về nguồn lực cho bảo vệ, phát triển tài nguyên nước, trong đó quy định rõ các nguồn lực để thực hiện các hoạt động bảo vệ và phát triển nguồn nước; làm rõ các hoạt động ưu tiên xã hội hoá, chính sách xã hội hoá trong bảo vệ, phát triển tài nguyên nước. Với quan điểm là phát triển kinh tế gắn liền với việc ''đầu tư lại'' trong công tác bảo vệ, phát triển tài nguyên nước, cải tạo cảnh quan, bảo tồn giá trị của hệ sinh thái liên quan đến nước.
Chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế thông qua các quy định về phí, lệ phí, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên nước, sử dụng nước tiết kiệm của người sử dụng nước.
Bổ sung quy định về đối tượng và nội dung về thu trữ nước mưa và việc sử dụng nước mưa tại các khu vực thường xuyên hạn hán thiếu nước và vùng thường xuyên ngập lụt; quy định cơ chế, chính sách trong việc thu trữ nước mưa.
Bổ sung, cập nhật quy định theo hướng kiểm soát toàn diện các hoạt động có ảnh hưởng hoặc có nguy cơ ảnh hưởng đến nguồn nước, đến ổn định lòng, bờ, bãi sông, hồ chứa, ô nhiễm nguồn nước, bảo vệ môi trường, cảnh quan, hệ sinh thái ven sông,…
Bổ sung quy định về phân vùng chức năng nguồn nước, dòng chảy tối thiểu, ngưỡng khai thác nước dưới đất; quy định nội dung giám sát, trách nhiệm giám sát và kết nối dữ liệu giám sát của tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nước theo hướng tự động liên tục hoặc định kỳ đảm bảo giám sát khai thác, sử dụng nước của công trình... nhằm kiểm soát chặt chẽ các hoạt động có nguy cơ gây ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước để bảo vệ số lượng, chất lượng của nguồn nước và bảo vệ các dòng sông.
Bổ sung nội dung về xác định các vùng, tiểu lưu vực, nguồn nước phải lập kế hoạch chi tiết sử dụng nước trong quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh, nguồn nước liên tỉnh. Để giải quyết hiệu quả các vấn đề cụ thể của từng lưu vực sông xảy ra ở tiểu lưu vực đang gặp phải như vấn đề hạn hán, ô nhiễm, suy thoái, lũ lụt,…tăng cường bảo đảm an ninh nguồn nước trên lưu vực.
GS.TS Mai Trọng Nhuận phát biểu tại Hội thảo
Quy định trách nhiệm của Bộ TN&MT, các Bộ, ngành địa phương, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện xây dựng kịch bản ứng phó, điều hoà, phân bổ nguồn nước khi xảy ra hạn hán thiếu nước và thực hiện điều hòa, phân phối nguồn nước trong trường hợp hạn hán, thiếu nước nghiêm trọng.
Theo đó, nội dung chính của dự thảo Luật Tài nguyên nước sửa đổi gồm 87 điều và được bố cục thành 10 chương. So với Luật Tài nguyên nước năm 2012, dự thảo Luật không tăng về số chương (trong đó giữ nguyên 19 điều, sửa đổi, bổ sung 55 điều, bổ sung mới 13 điều) và bãi bỏ 05 điều.
Tại Hội thảo, các chuyên gia, nhà khoa học, lãnh đạo các sở TN&MT, doanh nghiệp khai thác và sử dụng nước đã phát biểu đánh giá cao Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) do Bộ TN&MT chủ trì xây dựng, soạn thảo. Đồng thời, các đại biểu đã tập trung thảo luận, góp ý nhiều nội dung quan trọng, nhất là nội dung liên quan đến những điểm mới của dự thảo Luật.
Phát biểu tại Hội thảo, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Nguyễn Thị Lệ Thủy đánh giá cao trong một thời gian ngắn khi Quốc hội ban hành Nghị quyết số 50 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022, Chính phủ, Bộ TN&MT đã xây dựng Dự thảo Luật tương đối hoàn chỉnh để lấy ý kiến rộng rãi nhân dân. Cơ quan soạn thảo đã tập hợp nghiên cứu rất kỹ chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045,...
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Nguyễn Thị Lệ Thủy cũng cho biết, đối với những dự án luật mang tính chuyên sâu, chuyên ngành, phức tạp và tác động đến nhiều đối tượng khác nhau, Quốc hội đã có chủ trương từ sớm, từ xa để có thể tham gia ngay từ đầu nhằm lắng nghe các ý kiến để có tính phản biện cao hơn, thẩm tra sát với thực tiễn và có căn cứ khoa học.
Để tiếp tục hoàn thiện dự thảo, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Nguyễn Thị Lệ Thủy đề nghị, Bộ TN&MT nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến đóng góp của các đại biểu và tiếp tục hoàn thiện dự thảo Luật tài nguyên nước (sửa đổi). Luật Tài nguyên sửa đổi phải được cụ thể hóa đầy đủ nhất, sát thực nhất những quan điểm chỉ đạo của Đảng, kế thừa những vấn đề của Luật tài nguyên nước 2012 còn hiệu lực, ý nghĩa, không còn vướng mắc trong thực tiễn. Đặc biệt, dự thảo Luật cần tránh những chồng chéo khi Luật được ban hành.