1. Xác lập cơ sở pháp lý để đầu tư các dự án phát triển trên mặt ở khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia phải phù hợp với quy định của pháp luật về khoáng sản, đầu tư, đất đai và pháp luật khác có liên quan.
2. Thời gian dự trữ khoáng sản quốc gia phải đủ đáp ứng nhu cầu sử dụng khoáng sản trong từng thời kỳ, đồng thời để phát triển các dự án trên mặt, nhằm phát huy hiệu quả, tối đa các nguồn lực tài nguyên phát triển kinh tế - xã hội.
3. Việc điều chỉnh khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia (về thời gian, diện tích dự trữ...) phải đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư đang triển khai dự án phát triển trên mặt.
4. Triển khai các dự án phát triển trên mặt phải đáp ứng yêu cầu, quy định trách nhiệm bảo vệ khoáng sản chưa khai thác ở khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia có liên quan.
5. Quản lý nhà nước đối với các dự án phát triển trên mặt; quản lý, bảo vệ khoáng sản chưa khai thác trong diện tích khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia là trách nhiệm của các Bộ, ngành, UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có liên quan.
Năm 2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 645/QĐ-TTg về việc phê duyệt khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia. Theo đó, đã tổ chức đánh giá, phê duyệt khoanh định 48 khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia đến năm 2020 cho 10 loại khoáng ản gồm 23 khu vực dự trữ khoáng sản titan, 04 khu vực dự trữ khoáng sản cát trăng, 04 khu dự trữ khoáng sản quặng sắt – laterit, 06 khu vực dự trữ than (than nâu, than antraxit) và 07 khu vực dự trữ khác.